Nhiều năm gần đây, du khách có dịp lên A Lưới đều tìm để thưởng thức hương vị đặc biệt của món món bánh A Quát – còn được người dân gọi với cái tên yêu thương bánh “tình yêu”. Loại bánh này được người dân vùng cao dùng để thiết đãi khách quý và có mặt trong hầu hết các lễ hội, dịp trọng đại của dân tộc mình. Đặc biệt, trong lễ cưới, những cặp bánh a quát được người vùng cao chọn làm món quà hồi môn, cô gái vùng cao nào cũng phải làm món bánh này để mang về nhà chồng. Người mẹ khi tới thăm gia đình con gái đã đi lấy chồng cũng không thể thiếu những tấm bánh thơm thảo này. Cũng bởi vậy mà ngay từ nhỏ, các bé gái người dân tộc A Lưới đã được bà, được mẹ hướng dẫn làm bánh A Quát.
A Quát theo tiếng Tà Ôi có nghĩa là con trâu, là một loại ẩm thực truyền thống được chế biến từ nếp, tương tự như các loại bánh chưng, bánh tét miền xuôi. Bánh A Quát rất nhỏ, có hai đầu nhọn như cái sừng trâu. Khi làm bánh không ngâm nếp trước khi gói bánh mà công đoạn này chỉ thực hiện sau khi gói xong. Bánh A Quát không có nhân (đậu xanh, thịt mỡ...), chỉ hoàn toàn bằng nếp. Sự thơm ngon của bánh do thế trông chờ vào nguyên liệu nếp, vào lá gói và cả thời gian ngâm nước, đun sôi nấu bánh. Nếp ở vùng cao nổi tiếng là loại lương thực chủ yếu và sự thơm ngon với các tên gọi gợi nhớ, như nếp đen, nếp trắng, nếp tím mà đặc biệt nhất là nếp than. Hạt nếp than bắt đầu ngậm sữa thì đen bóng. Hạt nếp khi xay ra cũng có màu đen, đun lên vẫn giữ được màu sắc và có độ dẻo dính, hương thơm đặc biệt. Đây là loại gạo mà người Tà Ôi gọi là hạt ngọc của trời, hạt ngọc của Giàng....

Phụ nữ Tà Ôi gói bánh A Quát
Để gói bánh a quát, bà con đồng bào phải đến các bìa rừng để cắt lá đót tươi (không được già, cũng không được non). Khi gói bánh A Quát, người Tà Ôi cầm ngửa lá đót, rồi quấn ngọn hoặc gốc lá đót vòng quanh ngón tay cái hai vòng để tạo hình chóp nón rồi lật ngược và bốc nếp bỏ vào cho đầy. Sau đó nghiêng hình chóp có nếp và dùng tay quấn phần gốc hoặc ngọn còn lại của lá đót thành một hình chóp thứ hai, hoặc thứ ba, tượng trưng cho một con trâu hoàn chỉnh, đủ thân hình và đôi sừng rất đẹp. Sau khi được buộc thành từng cặp, bà con ngâm bánh trong chậu nước từ 1-2 tiếng rồi mới đem đi luộc để đảm bảo bánh mềm, dẻo. Bánh a quát chín, bóc tách từng lớp lá sẽ hiện ra thân bánh có màu đen phớt hồng rất đẹp mắt. Khi đưa lên thưởng thức, bánh có vị bùi bùi, thơm thơm.

Bánh A Quát sau khi gói xong
Những cặp bánh vừa mới ra lò, dẻo thơm, nóng hổi cũng chính là những tình cảm mà người Tà Ôi muốn gửi gắm. Bánh a quát được bó thành một cặp, chiếc lớn hơn tượng trưng cho người con trai và chiếc bánh nhỏ hơn là hiện thân của người con gái. Mỗi lần ăn hay biếu khách, người ta đều phải ăn cả cặp. Việc coi trọng bánh A Quát của người Tà Ôi bắt nguồn từ những truyền thuyết mà cha ông lưu truyền lại. Người Tà Ôi gói bánh A Quát không chỉ để thưởng thức cái ngon mà còn thể hiện sự biết ơn ông bà tổ tiên đã cho mình cuộc sống, cho mình cái ăn, cho mình hạt lúa, hạt nếp. Bên cạnh đó, còn thể hiện tình yêu. Hai chiếc bánh là một cặp, không thể tách rời.

Bánh A Coát sau khi nấu chín

Công phu đến thế nên cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi bánh A Quát làm ra, được dùng chủ yếu trong các dịp lễ trọng, kiểu như lễ mừng lúa mới, giỗ tổ tiên, quy tập mồ mả, tạ ơn trời đất, cưới xin và sau này là món ăn chính được “khoe” ở thực đơn phục vụ khách du lịch trong mô hình du lịch văn hóa cộng đồng mới phát triển. Bánh A Quát cũng được bà con vùng cao A Lưới dùng để bới đi làm rừng vì không quá nặng khi mang vác mà ăn vào thì lại đằm bụng, vừa phải, không quá no. Đồ chấm có khi chỉ cần vài hạt muối tiêu là đủ ngon.
A Quát không phải là món ăn ngon duy nhất từ nếp của bà con các dân tộc vùng cao A Lưới. Cũng từ loại lương thực “trời cho” này, bà con các dân tộc ít người còn chế biến rất nhiều món ăn ngon khác như xôi hông, cơm nếp lam, xôi thui ống… Tuy nhiên, đây là loại bánh phổ biến nhất của các dân tộc vùng cao A Lưới. Ngày nay, bánh a quát đã trở thành một sản phẩm ẩm thực du lịch đặc trưng phục vụ du khách khi đến tham quan A Lưới.